Cây sau sau này còn có nhiều tên gọi khác như: cây chó đẻ, cây ngải cứu, cây đồng thau, cây phát tài, cây phong ba, cây nhũ hương trắng, cây cổ thụ, cây bạch chỉ, cây thốt nốt… Tên khoa học của cây chót vót là Liquidambar formosana.
Đặc điểm hình thái của cây như sau
Cây cuối cùng này là loài thân gỗ lớn. Cây cuối cùng này có thể đạt chiều cao tối đa hơn 30m. Tuổi thọ của nó rất dài. Thân sau thẳng, có nhiều cành mảnh ngắn. Tán cây phía sau hẹp hình trứng rất đẹp. Gỗ sau rất tốt, bền và thơm. Lá sau nhỏ, mọc so le. Phiến lá chia thành 3 hoặc 5 thùy hình tam giác, có răng cưa ở cả hai mặt. Khi còn non, những chiếc lá sau này có màu tím rất bắt mắt. Kích thước trung bình của các lá sau là: chiều dài 6-12cm x chiều rộng 9-17cm. Mùa ra hoa của cây sau là vào khoảng tháng 3, tháng 4. Hoa của cây sau là hoa đơn tính từ cùng một gốc. Hoa đực mọc thành chùy ở đỉnh. Những bông hoa cái có hình cầu và có cuống dài rủ xuống. Mùa ra quả của những cây sau diễn ra vào tháng 9 và tháng 10. Cây sau ra nhiều quả nhỏ hình cầu kép có đường kính 3 cm. Quả chứa nhiều hạt hình bầu dục có cánh.
Phạm vi của các cây sau sau
Những cây sau này phân bố chủ yếu ở các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam. Ở Việt Nam, cây sau tập trung chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Tây, Hòa Bình và hầu hết các tỉnh vùng Đông Bắc Bộ.
Kỹ thuật trồng và chăm sóc các loại cây sau sau
Sau này là loại cây ưa sáng, chịu được khô hạn và khí hậu khắc nghiệt cũng như đất cằn. Chính vì lý do này mà sau này cực kỳ thích hợp để trồng trên đường phố. Sau này không cần chăm sóc nhiều, khả năng tái sinh rất tốt. Cây cuối cùng này nhân giống bằng hạt.
Sau đây là công dụng của cây
Cây sau có nhiều ứng dụng trong Đông y. Có thể nói đây là loại cây toàn năng trong y học bởi mọi bộ phận của cây sau đây đều có thể dùng để làm thuốc. Quả cuối cùng này có vị đắng và thơm. Những loại quả dưới đây có thể dùng để chữa các bệnh như thấp khớp, nổi mề đay, viêm da, đau khớp…
Những lá cuối cùng này có vị đắng, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc cơ thể. Ngoài ra, lá sau dùng chữa các bệnh như viêm ruột, nôn ra máu, đau vùng thượng vị.
– Nhựa cuối này có mùi thơm, vị ngọt, cay, tính ấm. Dùng chữa ho, khạc đờm, nôn ra máu, chảy máu cam…
– Rễ cuối cùng này có vị đắng, tính nóng, dùng chữa phong thấp, nhức răng.