Theo hình dạng thân và lối sống của cây, lan rừng có thể được phân thành một số nhóm sau
Phong lan độc đáo
Hoa lan đơn tính là loại lan sống bám trên các thân cây gỗ hoặc vách đá, thân mọc dọc theo một trục. Đây hầu hết là những loài lan có nguồn gốc từ vùng núi thấp hoặc trung bình, dễ trồng và dễ nở hoa ở miền Bắc. Theo hình thái thực vật và yêu cầu canh tác, có thể chia nhóm lan này thành 2 loại:
Phong lan có thân dài và rễ trên không
Thân cây thon dài, cây cao. Rễ lớn mọc ra từ một số điểm dọc theo chân. Rễ cây có thể vướng vào các vật cứng gần đó hoặc treo lơ lửng trong không khí. Cách trồng các loại lan này thường là buộc gỗ để treo hoặc buộc vào thân cây trong vườn. Cũng có thể trồng chậu nhưng chậu chỉ có tác dụng làm giá đỡ cho cây, rễ phải có thể phát triển tự do. Đây là nhóm lan dễ trồng nhất, bao gồm một số chi lan đáng chú ý.
Chi Giáng Hương ở Việt Nam có 8 loài, là loài lan đặc hữu ưa hoa dại, màu tươi và hương thơm. Do có kích thước lớn nên loài Giáng hương thường được dùng để trang trí sân vườn, nơi có không gian rộng.
Các loài giáng hương có nguồn gốc ở vùng núi thấp và trung bình, đa số dễ trồng và nở hoa nhiều ở Hà Nội. Hầu hết các loài cần bóng râm một phần và phát triển trong 40-70% ánh sáng trực tiếp. Mùa hè cần tưới nhiều nước nhưng tránh để cây bị đọng nước ở gốc. Dưỡng ẩm vừa phải vào mùa đông. Bón phân hàng tháng trong mùa sinh trưởng. Trồng cây chủ yếu bằng cách bám vào gỗ hoặc thân cây để rễ phát triển tự do, hạn chế thay chậu, thay gỗ vì dễ hư rễ.
Chi Giáng Hương thường được dùng để lai tạo với lan Vanda, lan Nhện, lan hồ điệp và phượng vĩ.
Phong lan thơm (Aeridesodorata)
Giáng hương còn được gọi là Lan quế. Cây có thân dài tới 1m, mập. Lá dài, dài 15-30 cm. Cụm hoa dài bằng lá, rủ xuống. Hoa dày, khá to. Môi hình ống cong rộng, có cựa nhô ra, tạo cho hoa có hình dáng giống con ong. Hoa có mùi thơm, màu từ trắng tinh đến hồng nhạt. Loài lan này được tìm thấy ở cả vùng núi đá và đồng bằng.
Cây to, nhiều cành ở gốc tạo thành bụi, khi ra hoa dùng làm cây trang trí sân vườn rất hiệu quả. Hoa nở vào dịp 2 tháng 9, tương đối lâu tàn. Là loài cây dễ trồng, nên che bóng, ánh sáng trực tiếp khoảng 40-70%. Tưới nước kỹ và bón phân hàng tháng vào đầu mùa sinh trưởng từ tháng 4 đến tháng 8. Sau khi cây ra hoa, duy trì độ ẩm vừa phải, không để cây bị khô, không bón phân cho đến mùa xuân năm sau.
Ngoài giống phổ biến có hoa trắng vàng, ở Việt Nam còn có 2 giống
– Giáng thơm hoa trắng (Ae. Odorarata var alba) có hoa màu trắng tím, cụm hoa mọc thẳng đến hơi rủ, nở từ tháng 8 đến tháng 9. Giống hiếm, được tìm thấy ở khu vực Trung tâm.
– Giáng hương hồng nhạn (Ae. Odorarata var micholitzii) có hoa màu hồng tím, nở vào tháng 4-5, cụm hoa mọc đứng, không có mùi thơm, thân ngắn, lá dày. cây đặc hữu của Tây Nguyên, dễ trồng ở miền Bắc
Lan Giáng Hương Nâu Quế (Aerdes houlletiana)
Còn được gọi là Tam Bảo. Cây có thân mập, dài. Lá có sọc, dài, mảnh, có mùi thơm của giáng hương. Cụm hoa rủ xuống, hoa to, mọc dày đặc. Hoa màu vàng cam hoặc nâu nhạt với cánh hoa màu tím. Nhãn được chia thành 3 thùy, thùy giữa rộng, rìa nhăn nheo và thùy giữa có một đường sẫm màu. Màu hoa có thể thay đổi từ cây này sang cây khác từ trắng sang tím sang vàng sang tím. Loài này có ở các tỉnh miền Trung và miền Nam, là loài lan đặc trưng của dãy Trường Sơn. Cây mọc chủ yếu ở vùng núi ở độ cao thấp.
Cây lớn, có nhiều màu sắc và hương thơm, thích hợp treo, trang trí ngoài trời rất hiệu quả. Hoa nở vào tháng 4-5, tương đối ổn định. Là loài dễ trồng, ưa bóng râm, chịu được 40-70% ánh sáng trực tiếp. Giống như Christmas Scent, loài này cần nhiều nước nhưng tránh đọng nước trong mùa sinh trưởng và giữ ẩm vừa phải vào mùa đông. Bón chủ yếu vào đầu vụ sinh trưởng, không bón vào mùa lạnh.
Một loài tương tự thường thấy là Ae. Falcata, được phân biệt bởi hoa màu vàng nhạt hơn và ít thơm hơn quế nâu.
Aerides multiflora (còn gọi là Đỗ quyên)
Người chơi lan thường gọi là lan đuôi chồn. Cây có thân ngắn cứng cáp, lá dài sọc. Cụm hoa rủ xuống, hoa nhỏ, dài, màu trắng, có đốm tím ở gốc và tím ở đỉnh. Nhãn không có gai, chia 3 thùy, thùy giữa hình tam giác, màu tím sẫm. Màu hoa có thể thay đổi từ cây này sang cây khác. Cây mọc thưa dần từ Bắc vào Nam, chủ yếu ở vùng trũng.
Loại lan này có thân gọn gàng, hoa có màu sắc rực rỡ, thích hợp trồng chậu treo trang trí gần cửa sổ, ban công rộng. Hoa nở vào tháng 5-6, tương đối lâu tàn. Cây rất dễ trồng và chăm sóc, tương tự như Hương thơm Giáng sinh và Quế nâu Giáng sinh. Tuy nhiên, loài này khó ra hoa hơn và nhạy cảm với nước đọng. Hãy chắc chắn để cây ở một nơi sáng sủa vào mùa đông.
Loài tương tự có thể gặp là Giáng hương hồng (Ae. rosea)
Loài này gặp rải rác ở Lai Châu hoặc một số tỉnh phía Nam.
Lan Vanda (Vanda)
Chi Vanda ở Việt Nam có 7 loài được liệt kê. Vạn đa được ưa chuộng bởi hoa to, màu sắc tươi tắn, lâu tàn và có mùi thơm. Kích thước cây tương đối lớn, thân dài, thích hợp trồng trang trí trong nhà.
Là loài có nguồn gốc từ đồng bằng hoặc trung du miền núi, hầu hết các loài Vanda đều dễ trồng và ra hoa ở Hà Nội. Các loài Vanilla đa rừng trồng ở Việt Nam là loài lá dẹt nên tránh ánh nắng trực tiếp nhưng ưa sáng hơn chi Giáng hương. Mùa hè cây cần nhiều nước, nhưng tránh để nước đọng ở rễ. Cũng như các loài lan đơn tính khác, nên hạn chế vận chuyển chậu làm xáo trộn bộ rễ. Khi cây quá lớn có thể tách sang chậu mới. Ngâm cây vào nước cho mềm rễ, sau đó tách ra để tránh làm hư rễ. Văn hóa Vạn Đà cần sự hỗ trợ cho thân cây và một nơi để rễ phát triển. Bộ rễ của Vạn Đa đang phát triển mạnh mẽ và nhiều cây mới sẽ nở hoa tươi tốt. Có thể trồng cây trong chậu treo mà không cần giá thể. Trong trường hợp này, chậu chỉ đóng vai trò hỗ trợ và rễ đang phát triển được để ngoài trời.
Vanda là loại lan thường được dùng để lai với Hoàng Yến, Nhện, Phượng Hoàng, Giáng Hương hay lan hồ điệp. Nhiều loài Vạn Đá có hoa đẹp, được ưa chuộng trên thị trường không phải lan rừng.
Cây có thân cứng cáp với nhiều rễ lớn. Lá có sọc, dài. Cụm hoa dài 10-15 cm. Hoa to, xếp thưa, màu vàng nâu, viền màu vàng chanh. Son vàng chanh, đế trắng. Loài lan này thường được tìm thấy ở một số tỉnh Đông Bắc như Cao Bằng trên vùng núi đá vôi thấp.
Vanda fuscoviridis (Vanda fuscoviridis)
Cây có hoa to, lâu tàn và có mùi thơm, thích hợp treo trang trí ngoài trời. Những bông hoa nở từ tháng Năm đến tháng Sáu. Là loài dễ trồng, chịu ánh sáng trung bình, 40-70% ánh sáng trực tiếp.
Một loài tương tự thường gặp là Vân đá Bắc (V. concolor) hoa màu nâu, đậm ở mép, nhạt dần vào trong, cánh môi màu nâu nhạt, gốc có sọc, loại này phổ biến ở miền Bắc.
Cây đinh lăng (Rhynchostylis)
Chi Ngọc trai ở Việt Nam có 3 loài. Các loài thuộc chi này được phân biệt bằng cụm hoa bao gồm nhiều hoa nhỏ xếp thành gai dày, màu sắc tươi sáng với hương thơm ngọt ngào. Dù ngọn ngọc bích có kích thước lớn nhưng thân không đạt chiều dài quá nhiều nên có thể phù hợp cả trồng trang trí sân vườn, trồng treo cửa sổ, ban công có diện tích hẹp hơn.
Là loài cây có nguồn gốc từ vùng đất thấp hoặc trung và núi cao, Ngọc Điểm rất dễ trồng và ra hoa tại Hà Nội. Rễ của loài to, chủ yếu bám vào gỗ hoặc chất trồng, ít khi treo như rễ của Vạn đa hay Giáng hương. Vì vậy, việc trồng những loài này cần có chỗ cho rễ phát triển, thường lan được buộc sát vào gỗ hoặc thân cây để rễ bò dọc theo gỗ. Hạn chế thay chậu bằng cách thay chỗ trồng vì như vậy sẽ gây hại rất nhiều cho bộ rễ đã bám chặt vào giá thể.
Loài ngọc bích ưa sáng nhưng nên tránh ánh nắng trực tiếp. Mùa hè cần tưới nhiều nước nhưng tránh để nước đọng ở gốc. Vào mùa đông, giữ ẩm vừa phải, để cây ở nơi sáng sủa.
Lan Ngọc Đai Châu (Rhynchostylis gigantea)
Còn gọi là chóp Nghinh Xuân Ngọc (tai trâu). Cây có thân cứng cáp, không cao, có nhiều rễ to. Những chiếc lá dày màu xanh lá cây được ngăn cách bởi những đường kẻ dọc màu trắng. Cụm hoa to, cong xuống dưới, dài 20-30 cm. Hoa dày dặn. Cánh dày màu trắng với nhiều đốm tím. Môi màu trắng có vạch tím, đỉnh chia 3 thùy nhỏ. Đai Châu phân bố rộng ở nhiều vùng như Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên. Cây thường được tìm thấy trên đất miền núi ở độ cao thấp đến trung bình.
Trà đại hoàng (Rhynchostylis gigantea)
Đai châu là giống lan được ưa chuộng do có cụm hoa đẹp, nở vào đầu xuân, tháng 1, tháng 2 nở vào dịp Tết, dễ trồng, ưa sáng 50-70%. Vụ sinh trưởng (tháng 3-8) có thể bón thúc hàng tuần bằng phân bón cân đối (N-P-K) để lá phát triển. Bón phân giàu lân trước khi ra hoa (tháng 9-11). Hạn chế bón khi thời tiết quá lạnh. Một số người dùng phân hữu cơ như nước ốc sên, dung dịch loãng để bón Đai châu, tuy có hiệu quả nhưng không nên dùng vì dễ làm sâu bệnh, thối lá và làm ô nhiễm môi trường trồng lan. Màu sắc của hoa Đai Châu đa dạng từ trắng, đỏ trắng đến đỏ tía. Một số giống Đai Châu hoa đỏ được nhập từ Thái Lan và giống Đai Châu hoa trắng là giống lai. * Hoa lan hải âu (Rhynchostylis coellestis)
Loại cây này có thân ngắn và lá nhỏ hơn. Cụm hoa mọc thẳng, dài 10-15 cm. Hoa to, mọc dày đặc, màu trắng với những đốm xanh lớn ở đỉnh. Môi xanh, đế trắng, hoa thơm. Cây mọc trên núi đất ở độ cao trung bình ở các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
Hải âu đốm ngọc trai (Rhynchostylis coellestis)
Do cụm hoa mọc thẳng đứng, màu xanh sáng rất đẹp nên hải âu là loài cây có giá trị trang trí cao. Cây ra hoa vào tháng 5-6, hoa nở khoảng 1 tuần. Là loài tương đối dễ trồng, ưa sáng, ưa không gian thoáng.
Các loài đáng chú ý khác: Đỗ quyên (Rh.retuasa) có hoa màu trắng lốm đốm tím rất đẹp. được tìm thấy rải rác ở miền bắc và bắc trung bộ, tương đối khó trồng và khó ra hoa nên không phổ biến. Hygrochlus (Hygrochlus)
Mọi người cũng hỏi
Câu hỏi 1: Loài hoa lan rừng nào có hình dáng đặc biệt và được coi là biểu tượng của quốc gia Singapore?
Câu hỏi 2: Loại hoa lan rừng nào được coi là một trong những loài hoa quý hiếm và đắt giá nhất thế giới?
Câu hỏi 3: Loài hoa lan rừng nào được biết đến với mùi hương đặc trưng và được sử dụng trong công nghiệp mỹ phẩm và hương liệu?